Linh Vật Hạc trong Phong Thủy

 Hình tượng loài chim hạc ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa phương Đông và mang nhiều ý nghĩa biểu tượng thanh cao. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý, thanh tịnh, thần tiên thoát tục còn gọi là Tiên hạc (仙鶴). Chim hạc là loài đứng đầu trong họ lông vũ còn gọi là đại điểu hay nhất phẩm điểu có tính cách của một người quân tử, là con chim của vũ trụ, của tầng cao, báo hiệu sự chuyển mùa, đại diện cho thế lực thiên nhiên từ trời xanh. Hạc loại linh vật được cho là bất tử của loài chim, là loài chim có phẩm chất cao quý, mạnh mẽ đối đầu với khó khăn, mang lại nhiều may mắn.

   Hạc vốn là linh vật của Đạo giáo, tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, trường sinh bất tử, Hạc là chim tiên, có khí chất và phong độ của bậc tiên nhân đạo sĩ, có quan hệ mật thiết với thần tiên của Đạo gia. Tương truyền tiên nhân thường cưỡi hạc, được gọi là "hạc giá", "hạc ngự", sau lại dùng để chỉ thần tiên đạo sĩ. Tranh cát tường có "quần tiên hiển thọ" là bức tranh Thọ tinh cưỡi hạc bay trong không trung, bát tiên (hoặc quần tiên). Hạc là một hình tượng được gây dựng lên có sức ảnh hưởng tới nghệ thuật tạo hình và hội họa.

   Hạc trong những hoàn cảnh nhất định còn chỉ về một số loài thuộc bộ Sếu. Theo quan niệm của người phương Đông cổ đại, sếu là biểu tượng của linh hồn người đã mất. Ở châu Á, đặc biệt ở Trung Quốc và Nhật Bản, mọi người xem sếu đỉnh đầu đỏ, hay còn gọi là sếu Nhật Bản là biểu tượng của sự may mắn, trường thọ và tính trung thực. Quan niệm sếu đỉnh đầu đỏ tượng trưng cho sự may mắn đến từ ngoại hình dong dỏng cao, đầy thanh lịch của những chú sếu. Mỗi cặp sếu gắn bó với nhau nhiều năm trời cho đến khi lìa đời. Điệu nhảy giao phối của sếu đỉnh đầu đỏ là một tuyệt phẩm. Chúng là biểu tượng của niềm hạnh phúc thuần khiết.

  Các vương hầu khi xưa, muốn cống tiến vật phẩm cho hoàng đế để lấy lòng tin thường sử dụng biểu tượng chim hạc, được gọi là "nhất phẩm điểu" hay là "nhất phẩm đương triều". Hạc còn được dùng để ví với những người ưu tú nên sắc lệnh chiêu mộ hiền sỹ còn được gọi là "hạc bản". Những thứ trên "hạc bản" được gọi là hạc thư hoặc "hạc đầu thư", những người tu hành và cảnh giới thoát tục, trí huệ khai thông được gọi là "hạc minh chi sĩ’’.


   Chim hạc là hình ảnh biểu tượng cao quý sau phượng hoàng là chim quan trọng nhất trong truyền thuyết và nghệ thuật Trung Hoa. Chim hạc được coi là hình ảnh của việc bất tử và là biểu tượng thông dụng nhất trong nhiều hình ảnh khác cùng mang ý nghĩa trường thọ và sự minh mẫn trí tuệ của con người được bồi đắp theo năm tháng mà tu bổ lớn lên.

     Có nhiều truyền thuyết khác nhau về loài chim này, cổ nhân đúc kết có 4 loài hạc nổi tiếng, được phân biệt qua màu sắc lông: đen, vàng, trắng, xanh. 
   Loài hạc có tuổi thọ rất dài, đặc biệt là hạc có bộ lông màu đen, chính vì vậy mà nó có biểu tượng là sự trường tồn, là tuổi thọ và sự bền vững.
     Nhưng trong hội họa, chim hạc thường được thể hiện với bộ lông màu trắng muốt. Đây lại là biểu tượng cho sự thanh cao, quyền quý, sự trong sáng và tinh khôi.
     Sách cổ ghi lại rất nhiều điều liên quan tới đức tính của hạc, nhìn một cách tổng quát, hạc giống như một người quân tử, không dâm, không dục, trong sạch thuần khiết, tiếng kêu thánh thót, sánh với nhân tài.
      Đầu hạc màu đỏ, hành hoả, nơi tập trung khí dương, tạo nên sự bền bỉ và sức sống dẻo dai.
     Chúng ta thấy rất nhiều bức khắc họa hình tượng chim hạc với với đôi cánh dang rộng bay trên trời xanh, thể hiện cảm hứng thi ca và những ước vọng cao quý. Sự khao khát được sải cánh tự do bay giữa bầu trời rộng lớn tựa như chí khí của một bậc anh hùng hào kiệt ôm hoài bão vẫy vùng trong tự do tự tại.
     Trong cuốn “Tướng hạc kinh” đã gọi hạc là ” thọ bất khả lượng” (sống lâu không thể tính) hay “hạc thọ thiên tuế” (hạc sống nghìn năm). Vì thế người đời sau dùng hạc để chúc phúc trường thọ, hay để mô phỏng cho sự bền vững.  
  Trong nghệ thuật chạm khắc, hạc cũng thường xuất hiện với gắn liền với cây tùng nên được gọi là hạc tùng, nó trở thành biểu tượng cho sự cao sang-an lạc, khí chất trường thọ, bản lĩnh trước nỗi trầm luân. Khi người ta khắc họa tùng và hạc thì bức tranh lập tức minh chứng cho chí khí, cốt cách của người quân tử, là sự trường tồn bền vững, là khao khát sải cánh giữa không trung, và là dũng khí đương đầu với gian truân, thử thách. Hay hình ảnh chim hạc đứng trên mỏm đá với sự bề thế cùng cây tùng gọi là hạc–thạch–tùng, cũng có ý nghĩa và biểu tượng của sự trường thọ, bền vững, dũng khí và bản lĩnh hay một tầng tượng trưng cho sự cao sang và an lạc.

   Trong hình tượng trang trí, hạc có kích thước lớn, cao với ước mong phát triển, hạc có mỏ dài, nhọn như mũi tên của sự vận động, đôi khi nó ngậm ngọc minh châu biểu trưng cho sang quý, hoặc khi ngậm hoa sen thì biểu trưng cho giác ngộ. Trên đầu hạc thường đội đèn nến thể hiện sự tôn thờ ánh sáng chân lý, ánh sáng giác ngộ, xua đi màn đêm. Thân hạc hình khum, tượng trưng cho bầu trời, chân cao như chột chống trời. Ở Việt Nam việc sử dụng hỗn hợp các hình tượng tôn giáo khá phổ biến và nó cũng trở thành biểu tượng văn hóa của Phật giáo, Nho giáo, nên Hạc thường được mô tả đứng chầu trên lưng Rùa hoặc trong đề tài Tiên cưỡi Hạc trên điêu khắc đình làng. Hạc được thể hiện ra tượng tròn đứng trên con rùa thường để trên bàn thờ, đình, chùa còn cái đầu đội hoặc mỏ ngậm một cái đế để cắm nến. Trong quan niệm truyền thống, hạc và rùa cũng là những loài sống lâu hàng đầu. Cho nên đời sau thường dùng những từ như “hạc linh”, “hạc thọ”, “hạc toàn” với dụng ý cho sự trường thọ, bền vững. Hình ảnh biểu tượng rùa hạc xuất hiện nhiều trong tranh chúc thọ, các bình phong, hoặc tranh vẽ hay đồ chạm khắc.

   Hình ảnh rùa và hạc được bài trí trong những ngôi đền, chùa linh thiêng, Có ý kiến cho rằng, hạc là con vật của đạo giáo. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hơn nữa rùa có ý nghĩa là quy: sự quay trở về, hạc lại tượng trưng cho sự thanh cao, thuần khiết. Với dụng ý con người cần phải quay trở về với bản tính thiện lương, sự thanh cao và trong sáng ban đầu, đó chính là quay về với nguồn cội.

     Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này là tượng trưng cho một tình bạn trong sáng, sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.

   Hạc là một hình tượng được gây dựng lên có sức ảnh hưởng rất lớn tới nghệ thuật tạo hình và hội họa. Sự xuất hiện của nó trong rất nhiều tác phẩm mà ngày nay người ta vẫn sử dụng rất nhiều trong tranh cát tường, có bức chỉ vẽ hạc như đoàn hạc, song hạc… 

  Nhưng phần nhiều được vẽ phối hợp với các động thực vật trường thọ khác, như phối hợp với cây tùng, cách phối hợp này khá nhiều, như “tùng hạc trường xuân”, “tùng hạc đồng xuân”, “tùng hạc hà linh”, “hạc thọ tùng linh”. Ngoài ra còn có các chủ đề quy hạc tế linh, quy hạc diên niên, lộc hạc đồng xuân.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến